Nội dung chính của sách nằm ở 4 chương, từ chương 5 tới chương 9, tập trung vào 4 nguyên lý trong phương pháp đầu tư của Warren Buffett:
Nguyên lý kinh doanh
1. Doanh nghiệp có mô hình kinh doanh đơn giản và dễ hiểu không?
2. Doanh nghiệp có một lịch sử hoạt động hợp lý không?
3. Doanh nghiệp có triển vọng dài hạn không?
Nguyên lý quản lý
1. Quản lý có hợp lý không?
2. Ban quản lý có công bằng với các cổ động không?
3. Ban quản lý có chống lại được tính bầy đàn không?
Nguyên lý tài chính
1. Lợi nhuận trên vốn cổ phần có cao không?
2. Lợi nhuận chủ sở hữu của công ty?
3. Lợi nhuận biên ra sao?
4. Công ty tạo ra được ít nhất một đô la giá trị thị trường cho mỗi đô la được giữ lại hay không?
Nguyên lý giá trị
1. Giá trị của công ty là gì?
2. Công ty có được bán với giá chiết khấu đáng kể so với giá trị của nó không?
Phần tiếp theo đây mình sẽ tóm tắt từng nguyên lý nêu trên.
I. Nguyên lý kinh doanh
- Thứ nhất, mô hình kinh doanh đơn giản, dễ hiểu là tùy thuộc vào khả năng của nhà đầu tư. Theo Buffett mỗi nhà đầu tư nên lựa chọn các công ty trong phạm vi hiểu biết (nói cách khác là trong "vòng tròn khả năng") của mình. Và vấn đề không phải "vòng tròn khả năng" của bạn lớn như thế nào mà là bạn xác định nó chính xác đến thế nào. (Nhiều người cho rằng Buffett không nắm rõ về công nghệ nên không hoàn toàn không đầu tư vào ngành này).
- Thứ hai, Buffett cho rằng không thể dự đoán được sự thành công trong tương lai của công ty thì thành tích ổn định trong quá khứ sẽ là một kim chỉ nam tương đối đáng tin cậy. Khi một công ty có kết quả hoạt động ổn định chỉ với một loại sản phẩm từ năm này sang năm khác thì chắc chắn kết quả đó sẽ được duy trì. Buffett tránh mua những công ty có đường lối hoạt động thay đổi về căn bản, bởi vì các kế hoạch trước đó của công ty đã không thành công, và khi trải qua các thay đổi kinh doanh quan trọng sẽ làm tăng khả năng phạm phải những sai lầm nguy hiểm.
- Thứ ba, Buffett thích những cổ phiếu có mức sinh lời trên vốn đầu tư (ROI) cao, để chắc chắn rằng nó sẽ còn tiếp tục như vậy. Ông còn xem xét lợi thế cạnh tranh trong dài hạn để xem liệu nó có còn kéo dài hay không? Ông tìm kiếm những thứ ông gọi là nhượng quyền kinh doanh (phần này sách dịch không rõ nghĩa lắm). Ông tìm những công ty có sản phẩm dịch vụ được người tiêu dùng:
II. Nguyên lý quản lý
- Sự hợp lý: Buffett tin tưởng rằng hành vi quản lý quan trọng nhất là phân bổ hợp lý các nguồn vốn của công ty, bởi vì theo thời gian sự phân bổ nguồn vốn sẽ quyết định giá trị cổ phiếu của công ty. Khi công ty tạo ra lợi nhuận với nhiều tiền mặt thì một câu hỏi đặt ra là làm gì với tiền mặt đó: đầu tư tiếp hay chia cho cổ đông. Nếu số tiền mặt dư thừa tái đầu tư có thể tạo ra lợi nhuận trên vốn đầu tư ở mức trên trung bình thì công ty nên giữ lại và tái đầu tư. Nếu giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư ở mức thấp hơn chi phí vốn là hoàn toàn bất hợp lý.
Một công ty có lợi nhuận đầu tư trung bình hoặc dưới trung bình nhưng tạo ra tiền mặt vượt nhu cầu có 3 lựa chọn:
- Tính bầy đàn: Buffett thấy rằng có quá nhiều bản báo cáo thường niên ban quản lý chỉ đề cập đến sự thành công, và che dấu hết các khuyết điểm, nguyên nhân của việc theo ông là do tính bầy đàn - khuynh hướng trong đó các nhà quản lý bắt chước hành vi của những nhà quản lý khác mà không cần biết rằng hành vi đó có thể ngu ngốc hoặc bất hợp lý.
Hầu hết các nhà quản lý không sẵn lòng phơi bày sự thua lỗ trầm trọng quý rồi của công ty cho công chúng, trong khi những công ty khác quý vừa rồi vẫn tạo ra lợi nhuận. Buffett cho rằng một nhà quản lý với kỹ năng giao tiếp tốt nên thuyết phục cổ đông chấp nhận thua lỗ trong ngắn hạn và thay đổi phương hướng của công ty nếu nó mang lại kết quả vượt trội theo thời gian.
Tính bầy đàn còn thể hiện ở sự bắt chước máy móc. Nếu tất cả các công ty A, B, C cùng làm một thứ giống nhau thì chắc chắn đó là nguyên nhân khiến CEO của công ty D cũng phải buộc công ty của ông hành động như vậy.
==> Tóm lại Buffett khuyên nhà đầu tư nên làm việc với những CEO thẳng thắn và trung thực với cổ đông cũng như nhân viên của họ. Đạo đức là một điều kiện kiên quyết để làm kinh doanh. Bởi một khi CEO thực hiện các thủ thuật để lừa cổ đông thì nhà đầu tư rất khó để phát hiện ra. Và nếu chờ tới lúc cơ quan chức năng phát hiện ra thì cổ đông chính là những người phải gánh thảm họa.
Nguyên lý kinh doanh
1. Doanh nghiệp có mô hình kinh doanh đơn giản và dễ hiểu không?
2. Doanh nghiệp có một lịch sử hoạt động hợp lý không?
3. Doanh nghiệp có triển vọng dài hạn không?
Nguyên lý quản lý
1. Quản lý có hợp lý không?
2. Ban quản lý có công bằng với các cổ động không?
3. Ban quản lý có chống lại được tính bầy đàn không?
Nguyên lý tài chính
1. Lợi nhuận trên vốn cổ phần có cao không?
2. Lợi nhuận chủ sở hữu của công ty?
3. Lợi nhuận biên ra sao?
4. Công ty tạo ra được ít nhất một đô la giá trị thị trường cho mỗi đô la được giữ lại hay không?
Nguyên lý giá trị
1. Giá trị của công ty là gì?
2. Công ty có được bán với giá chiết khấu đáng kể so với giá trị của nó không?
Phần tiếp theo đây mình sẽ tóm tắt từng nguyên lý nêu trên.
I. Nguyên lý kinh doanh
- Thứ nhất, mô hình kinh doanh đơn giản, dễ hiểu là tùy thuộc vào khả năng của nhà đầu tư. Theo Buffett mỗi nhà đầu tư nên lựa chọn các công ty trong phạm vi hiểu biết (nói cách khác là trong "vòng tròn khả năng") của mình. Và vấn đề không phải "vòng tròn khả năng" của bạn lớn như thế nào mà là bạn xác định nó chính xác đến thế nào. (Nhiều người cho rằng Buffett không nắm rõ về công nghệ nên không hoàn toàn không đầu tư vào ngành này).
- Thứ hai, Buffett cho rằng không thể dự đoán được sự thành công trong tương lai của công ty thì thành tích ổn định trong quá khứ sẽ là một kim chỉ nam tương đối đáng tin cậy. Khi một công ty có kết quả hoạt động ổn định chỉ với một loại sản phẩm từ năm này sang năm khác thì chắc chắn kết quả đó sẽ được duy trì. Buffett tránh mua những công ty có đường lối hoạt động thay đổi về căn bản, bởi vì các kế hoạch trước đó của công ty đã không thành công, và khi trải qua các thay đổi kinh doanh quan trọng sẽ làm tăng khả năng phạm phải những sai lầm nguy hiểm.
- Thứ ba, Buffett thích những cổ phiếu có mức sinh lời trên vốn đầu tư (ROI) cao, để chắc chắn rằng nó sẽ còn tiếp tục như vậy. Ông còn xem xét lợi thế cạnh tranh trong dài hạn để xem liệu nó có còn kéo dài hay không? Ông tìm kiếm những thứ ông gọi là nhượng quyền kinh doanh (phần này sách dịch không rõ nghĩa lắm). Ông tìm những công ty có sản phẩm dịch vụ được người tiêu dùng:
- Cần hay mong muốn có
- Không có sản phẩm thay thế tương tự
- Không được điều chỉnh
II. Nguyên lý quản lý
- Sự hợp lý: Buffett tin tưởng rằng hành vi quản lý quan trọng nhất là phân bổ hợp lý các nguồn vốn của công ty, bởi vì theo thời gian sự phân bổ nguồn vốn sẽ quyết định giá trị cổ phiếu của công ty. Khi công ty tạo ra lợi nhuận với nhiều tiền mặt thì một câu hỏi đặt ra là làm gì với tiền mặt đó: đầu tư tiếp hay chia cho cổ đông. Nếu số tiền mặt dư thừa tái đầu tư có thể tạo ra lợi nhuận trên vốn đầu tư ở mức trên trung bình thì công ty nên giữ lại và tái đầu tư. Nếu giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư ở mức thấp hơn chi phí vốn là hoàn toàn bất hợp lý.
Một công ty có lợi nhuận đầu tư trung bình hoặc dưới trung bình nhưng tạo ra tiền mặt vượt nhu cầu có 3 lựa chọn:
- Công ty có thể phớt lờ và tiếp tục tái đầu tư ở tỷ lệ dưới mức trung bình
- Công ty có thể mua sự tăng trưởng, thông qua việc mua một công ty khác
- Công ty có thể trả lại tiền mặt cho cổ đông
- Tính bầy đàn: Buffett thấy rằng có quá nhiều bản báo cáo thường niên ban quản lý chỉ đề cập đến sự thành công, và che dấu hết các khuyết điểm, nguyên nhân của việc theo ông là do tính bầy đàn - khuynh hướng trong đó các nhà quản lý bắt chước hành vi của những nhà quản lý khác mà không cần biết rằng hành vi đó có thể ngu ngốc hoặc bất hợp lý.
Hầu hết các nhà quản lý không sẵn lòng phơi bày sự thua lỗ trầm trọng quý rồi của công ty cho công chúng, trong khi những công ty khác quý vừa rồi vẫn tạo ra lợi nhuận. Buffett cho rằng một nhà quản lý với kỹ năng giao tiếp tốt nên thuyết phục cổ đông chấp nhận thua lỗ trong ngắn hạn và thay đổi phương hướng của công ty nếu nó mang lại kết quả vượt trội theo thời gian.
Tính bầy đàn còn thể hiện ở sự bắt chước máy móc. Nếu tất cả các công ty A, B, C cùng làm một thứ giống nhau thì chắc chắn đó là nguyên nhân khiến CEO của công ty D cũng phải buộc công ty của ông hành động như vậy.
==> Tóm lại Buffett khuyên nhà đầu tư nên làm việc với những CEO thẳng thắn và trung thực với cổ đông cũng như nhân viên của họ. Đạo đức là một điều kiện kiên quyết để làm kinh doanh. Bởi một khi CEO thực hiện các thủ thuật để lừa cổ đông thì nhà đầu tư rất khó để phát hiện ra. Và nếu chờ tới lúc cơ quan chức năng phát hiện ra thì cổ đông chính là những người phải gánh thảm họa.
III.Nguyên lý tài chính
- Lợi nhuận trên vốn cổ phần: Buffett coi lợi nhuận trên mỗi cổ phần là bức màn mờ ảo, do hầu hết các công ty đều giữ lại một phần lợi nhuận của năm trước để tăng vốn cơ bản. Ông tin tưởng rằng kết quả kiểm tra kinh tế rõ nhất khi một công ty đạt được tỷ lệ lợi nhuận trên vốn cổ phần cao, chứ không phải là khi công ty có mức thu nhập ổn định từ lợi nhuận trên cổ phiếu.
Tuy nhiên để sử dụng tỷ lệ này chúng ta cần thực hiện một số điều chỉnh:
Buffett cho rằng tính toán lợi nhuận trên cổ phiếu chỉ là điểm bắt đầu vì "không phải tất cả các khoản lợi nhuận đều được tạo ra giống nhau". Theo ông tính toán lợi nhuận chỉ hữu ích cho phân tích nếu chúng xấp xỉ bằng dòng tiền kỳ vọng của công ty.
Tuy nhiên Buffett cảnh báo dòng tiền mặt cũng không phải là công cụ hoàn hảo để xác định giá trị mà nó thường đánh lạc hướng các nhà đầu tư. Dòng tiền mặt là hợp lý khi đánh giá những công ty có quy mô vốn đầu tư lớn ban đầu và về sau thì nhỏ hơn như các công ty BDS, gas và cáp. Còn các công ty đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn như những cty sản xuất thì không thể đánh giá chính xác khi chỉ xem dòng tiền mặt của chúng.
- Lợi nhuận biên: Giống Fisher, Buffett nhận thức được rằng doanh nghiệp lớn sẽ có những vụ đầu tư tồi tệ nếu ban quản lý không thể biến doanh thu thành lợi nhuận.
-Giả thuyết 1 đô la: Mục tiêu của Buffett là lựa chọn những công ty mà mỗi đô la của lợi nhuận giữ lại chuyển thành ít nhất 1 đô la giá trị thị trường. Buffett giải thích rằng nếu một công ty sử dụng không hiệu quả phần lợi nhuận giữ lại trong một thời gian dài thì cuối cùng thị trường sẽ định giá cổ phiếu đó một cách đáng thất vọng.
IV. Nguyên lý giá trị
- Tính toán giá trị doanh nghiệp: Buffett định giá doanh nghiệp theo phương pháp chiết khấu dòng tiền (dự đoán tổng dòng tiền lợi nhuận doanh nghiệp thu được trong suốt quá trình hoạt động, rồi sau đó chiết khấu về thời điểm hiện tại)
Một điểm nhấn mạnh: Ông chỉ tìm kiếm những công ty có lợi nhuận trong tương lai có thể dự đoán được tương đối chắc chắn như lợi nhuận của trái phiếu. Nếu không tự tin dự đoán luồng tiền trong tương lai của doanh nghiệp đó, ông sẽ bỏ qua.
Về tỷ lệ chiết khấu, ông thường so với tỷ lệ lãi suất của trái phiếu và tăng thêm vài ba điểm để đảm bảo an toàn. Ví dụ khi lợi tức của trái phiếu thấp hơn 7% ông thường tăng tỷ lệ chiết khâu lên mức 10%.
- Mua ở mức giá hấp dẫn: Buffett xác định những công ty có thu nhập trên mức trung bình và sau đó mua cổ phiếu của các công ty này với giá thấp hơn giá trị thực. Ông chỉ mua cổ phiếu khi chênh lệch giữa giá và giá trị ở biên độ an toàn.
Biên độ an toàn hỗ trợ Buffett theo 2 hướng:
- Lợi nhuận trên vốn cổ phần: Buffett coi lợi nhuận trên mỗi cổ phần là bức màn mờ ảo, do hầu hết các công ty đều giữ lại một phần lợi nhuận của năm trước để tăng vốn cơ bản. Ông tin tưởng rằng kết quả kiểm tra kinh tế rõ nhất khi một công ty đạt được tỷ lệ lợi nhuận trên vốn cổ phần cao, chứ không phải là khi công ty có mức thu nhập ổn định từ lợi nhuận trên cổ phiếu.
Tuy nhiên để sử dụng tỷ lệ này chúng ta cần thực hiện một số điều chỉnh:
- Các chứng khoán có thể chào bán nên được định giá theo chi phí, không phải theo giá trị thị trường, bởi giá trị thị trường nói chung gây ảnh hưởng lớn tới tỷ suất lợi nhuận trên vốn cổ phần. Ví dụ nếu thị trường tăng mạnh trong 1 năm sẽ làm tăng giá trị ròng của một công ty, thì kết quả hoạt động thực sự nổi trội sẽ bị giảm bớt khi so sánh với mẫu số lớn. Và ngược lại.
- Phải kiểm soát ảnh hưởng của những nhân tố bất thường có thể có trong tử số của tỷ lệ này. Buffett loại trừ tất cả phần lãi và lỗ trên vốn cũng như các nhân tố bất thường làm tăng, giảm lợi nhuận hoạt động. Ông đang tìm cách tách biệt kết quả hoạt động thường niên cụ thể của 1 công ty. Ông muốn biết ban quản lý đã hoàn thành nhiệm vụ tạo mức lợi nhuận từ hoạt động của công ty với nguồn vốn ban đầu tốt như thế nào?
- Buffett tin tưởng rằng một công ty nên đạt được lợi nhuận trên vốn cổ phần tốt trong khi không vay nợ hoặc nợ ít.
Buffett cho rằng tính toán lợi nhuận trên cổ phiếu chỉ là điểm bắt đầu vì "không phải tất cả các khoản lợi nhuận đều được tạo ra giống nhau". Theo ông tính toán lợi nhuận chỉ hữu ích cho phân tích nếu chúng xấp xỉ bằng dòng tiền kỳ vọng của công ty.
Tuy nhiên Buffett cảnh báo dòng tiền mặt cũng không phải là công cụ hoàn hảo để xác định giá trị mà nó thường đánh lạc hướng các nhà đầu tư. Dòng tiền mặt là hợp lý khi đánh giá những công ty có quy mô vốn đầu tư lớn ban đầu và về sau thì nhỏ hơn như các công ty BDS, gas và cáp. Còn các công ty đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn như những cty sản xuất thì không thể đánh giá chính xác khi chỉ xem dòng tiền mặt của chúng.
- Lợi nhuận biên: Giống Fisher, Buffett nhận thức được rằng doanh nghiệp lớn sẽ có những vụ đầu tư tồi tệ nếu ban quản lý không thể biến doanh thu thành lợi nhuận.
-Giả thuyết 1 đô la: Mục tiêu của Buffett là lựa chọn những công ty mà mỗi đô la của lợi nhuận giữ lại chuyển thành ít nhất 1 đô la giá trị thị trường. Buffett giải thích rằng nếu một công ty sử dụng không hiệu quả phần lợi nhuận giữ lại trong một thời gian dài thì cuối cùng thị trường sẽ định giá cổ phiếu đó một cách đáng thất vọng.
IV. Nguyên lý giá trị
- Tính toán giá trị doanh nghiệp: Buffett định giá doanh nghiệp theo phương pháp chiết khấu dòng tiền (dự đoán tổng dòng tiền lợi nhuận doanh nghiệp thu được trong suốt quá trình hoạt động, rồi sau đó chiết khấu về thời điểm hiện tại)
Một điểm nhấn mạnh: Ông chỉ tìm kiếm những công ty có lợi nhuận trong tương lai có thể dự đoán được tương đối chắc chắn như lợi nhuận của trái phiếu. Nếu không tự tin dự đoán luồng tiền trong tương lai của doanh nghiệp đó, ông sẽ bỏ qua.
Về tỷ lệ chiết khấu, ông thường so với tỷ lệ lãi suất của trái phiếu và tăng thêm vài ba điểm để đảm bảo an toàn. Ví dụ khi lợi tức của trái phiếu thấp hơn 7% ông thường tăng tỷ lệ chiết khâu lên mức 10%.
- Mua ở mức giá hấp dẫn: Buffett xác định những công ty có thu nhập trên mức trung bình và sau đó mua cổ phiếu của các công ty này với giá thấp hơn giá trị thực. Ông chỉ mua cổ phiếu khi chênh lệch giữa giá và giá trị ở biên độ an toàn.
Biên độ an toàn hỗ trợ Buffett theo 2 hướng:
- Bảo vệ ông khỏi sự sụt giảm giá.
- Tạo cơ hội đem lại những khoản thu nhập bất thường từ cổ phiếu.